LÝ LỊCH DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT CẤP QUỐC GIA ĐỀN AN LẠC, XÃ HOẰNG HẢI, HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

Đăng lúc: 08:52:00 27/11/2024 (GMT+7)

 LÝ LỊCH DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT CẤP QUỐC GIA ĐỀN AN LẠC, XÃ HOẰNG HẢI, HUYỆN HOẰNG HÓA,

TỈNH THANH HÓA

 Nằm trên địa bàn thôn An Lạc thuộc xã biển Hoằng Hải (Hoằng Hóa), Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đền An Lạc được khởi dựng vào thế kỷ XVI, là nơi thờ đệ nhất Khai quốc công thần triều Hậu Lê - Lê Lai và các hậu duệ đã có công khai hoang lập ấp ở vùng đất An Lạc ngày nay.

Toàn cảnh khuôn viên di tích

Trung Túc vương Lê Lai người thôn Dựng Tú, sách Đức Giang, nay là làng Tép, xã Kiên Thọ (Ngọc Lặc). Ông được biết đến là Khai quốc công thần triều Hậu Lê - người đã nguyện một lòng trung cùng thủ lĩnh Lê Lợi tại “Hội thề Lũng Nhai” với quyết tâm đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Về sau, trong một thế trận bị kẻ thù vây hãm, ông đã hy sinh để cứu chúa. Nhớ công ơn của kẻ bề tôi trung thành, Vua Lê Thái Tổ đã để lại di huấn, sau khi nhà vua mất, sẽ làm giỗ cho Lê Lai trước ngày giỗ vua. Bởi vậy, đến nay trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi"…

Con cháu Trung Túc vương Lê Lai đời nối đời phụng sự cống hiến cho sự nghiệp của nhà Hậu Lê. Nửa cuối thế kỷ XV, hậu duệ đời thứ 5 của Khai quốc công thần Lê Lai là Tả Thừa Chánh sứ ty Lê Thọ được vua Lê cử về đất Sơn Trang trấn cửa sông Linh Trường phòng giặc quấy phá. Sau khi ông mất, vào đầu thế kỷ XVI, con trai là Tán Trị công thần Đô chỉ huy sứ Lê Dũ đã dời tư gia về làng Thìn (nay là thôn An Lạc) để xây dựng từ đường thờ cúng cha và tiên tổ dòng họ Lê. Người đời sau thường gọi tên đền An Lạc.

Ở thôn An Lạc có hơn 1.000 nhân khẩu, trong đó dòng họ Lê chiếm đến 70%. Từ đền An Lạc ra bờ biển chỉ hơn 1 km.

Với nhiều giá trị lịch sử, văn hóa được lưu giữ, năm 2001 đền An Lạc được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Năm 2019, di tích được trùng tu - tôn tạo với tổng kinh phí hơn 2 tỷ đồng từ nguồn kinh phí Nhà nước hỗ trợ và xã hội hóa.

Tại đền An Lạc ngày nay vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, có thể kể đến như bức đại tự; câu đối; sắc phong; thẻ bài…

Ông Lê Văn Dự - hậu duệ dòng họ Lê tự hào cho biết: “Từ năm 1997 đến nay tôi được người trong dòng họ tín nhiệm bầu làm thành viên trong ban Quản tộc, với trách nhiệm trông coi, chăm lo hương khói cho tiên tổ. Hàng năm, vào ngày chính kỵ (giỗ) của cụ Lê Lai 29 tháng 4 (âm lịch) con cháu trong dòng họ trở về dâng hương rất đông. Cùng với đó là ngày mùng 5 tháng 8 (âm lịch) kỵ cụ Lê Dũ cũng là dịp để hậu thế tưởng nhớ người đã có công khởi dựng đền thờ, đặt nền móng cho sự phát triển của làng An Lạc đến ngày hôm nay. Con cháu dòng họ Lê tự hào về công lao, đóng góp của cha ông trong lịch sử dân tộc và quê hương, đất nước”.

Di tích có 2 tên gọi khác nhau xuất phát từ tên vùng đất và nội dung thờ. Tên gọi xuất phát từ tên vùng đất là làng An Lạc. Tên gọi này được dùng phổ biến trong nhân dân vì đền nằm ở làng An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá. Như vậy, tên đền An Lạc xuất hiện muộn nhất cho đến nay cũng hơn 2 thế kỷ vì đầu thế kỷ XIX vùng đất này đã định danh là An Lạc. Tên gọi xuất phát từ nội dung thờ có tên là: Lê Công Thần, sở dĩ gọi đền là Lê Công Thần vì đều là nơi thờ các vị công thần dòng họ Lê – Lai. Sắc phong tại đền thờ còn ghi rõ Lê Lai “Bình Ngô khai quốc công thần” – Thái uý Phúc quốc công Công trình: Tu bổ, tôn tạo di tích đền An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá. 6 Thượng đẳng thần; Lê Lâm (đệ nhị thể hệ - con trai Lê Lai)” Lũng Nhai công thần – Thái uý trung quốc công – Trác vĩ thượng đẳng thần”; Lê Niệm (con Lê Lâm) Thái uý tĩnh quốc công – Trác vĩ thượng đẳng thần; Lê Công Giới (thế hệ thứ 9) – Dương Vũ – Uy dũng Hoằng lê hầu – Linh phù tôn thần (sắc phong ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1925). Ngoài ra tại đền còn thờ các vị khác như Lê Lạn, Lê Lư, Lê Lộ… Họ đều là công thần khai quốc, trung hưng là Lê Sơ và là anh em, con cháu họ của Lê Lai. Có thể nói đền Lê Công Thần chính là miếu đường thờ các thế hệ công thần của dòng họ Lê Lai.

Đền thờ hiện nay nằm trên địa bàn thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Vùng đất này xa xưa có tên gọi là Linh Trường trang, cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có tên gọi là Ngọc Thôn rồi Ngọc Lâm. Thôn An Lạc (tên nôm gọi là làng Thìn) xã Ngọc Lâm, tổng Ngọc Chuế (lại có tên gọi nữa là Ngọc Quyết và Kim Xuyết), huyện Hoằng Hoá, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa. Trước năm 1945 vùng đất này lại được gọi là Giáp Lê, xã Ngọc Lâm, phủ Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.

Đi đến khu di tích đền An Lạc có thể đi bằng cả đường thuỷ lẫn đường bộ. Đường bộ từ cầu Tào Xuyên trên quốc lộ 1A theo đường tỉnh lộ khoảng 7km xuống ngã 3 Bút Sơn. Từ Bút Sơn đi tiếp con đường này xuống Hoằng Ngọc, từ Hoằng Ngọc theo đường liên xã qua Hoằng Trường đến Hoằng Hải độ 2km là đến di tích.

Đền An Lạc hiện nay nằm trên thửa đất số 122 tờ bản đồ số 04 QLRĐ xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá. Nhìn chung khu đất đều có vị trí cao ráo hơn so với khu vực lân cận. Đền quay hướng Nam cũng lấy điểm tựa là núi Linh Trường. Cảnh quan nơi đây đã hơn 1 lần được cách danh nhân ca ngợi. Lê Thánh Tông năm 1476 khi đi qua địa danh này, cảm hứng trước cảnh trí núi sông Linh Trường đã làm thơ và có bài tựa ca ngợi cảnh đẹp kỳ vĩ nơi đây. Ở vào không gian cảnh quan độc đáo đó, đền An Lạc từ xưa đã là một kiến trúc hết sức đẹp. Theo các nguồn tài liệu cho biết thì đền được xây dựng từ thế kỷ XVI. Kiến trúc của lần khởi dựng đó bao gồm: Nghênh môn, Bình phong, sân bái đường, Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Ngoài ra còn có nhà Tả Vu, Hữu Vu và các công trình bảo vệ khác. Dấu vết kiến trúc của lần khởi dựng này đến nay không còn gì, có chăng chỉ còn lại ở quy mô nền móng. Công trình: Tu bổ, tôn tạo di tích đền An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá. 7 Ngôi đền hiện nay nằm theo hướng và nền móng lúc khởi dựng. Kiến trúc đền hiện còn cổng, sân bái đường và đền thờ. Đền thờ hiện nay có kết cấu theo kiểu chữ tam. Từ ngoài vào, cổng đền hiện nay mới được tu sửa nhỏ chỉ có giá trị cùng với hàng rào xung quanh bảo vệ đền. Qua khu vườn là đến sân bái đường. Tiền đường được xây dựng những năm gần đây gồm có nhà 3 gian 2 chái hình thức 4 mái có đao chái kích thước 10,72m x 6,32m với gian giữa rộng 2,4m; hai gian bên rộng 2,85m; hai chái rộng 1,31m; Bước cột cột cái – cột cái 3,6m; Cột cái – cột quân 1,36m; Hệ vì kèo gỗ đơn giản. Mái lợp ngói mũi kết hợp ngói ta, trái láng xi măng; Nền lát gạch bát 300x300. Trung đường tôn tạo năm 1988. Hiện trạng gồm nhà 3 gian 2 dĩ dài 9,22m rộng 5,51m. Gian giữa rộng 2,4m; hai gian bên rộng 2,7m; hai dĩ rộng 0,71m; cột cái – cột cái 3,1m; cột cái – cột quân 1,21m; cột cái – tường hậu 1.21m; Hệ vì kèo kẻ chuyền giá chiêng. Mái lợp ngói mũi hài; Cửa gỗ bức bàn thượng song hạ bản; Nền lát gạch bát 300x300. Nhà Hậu cung là nhà 3 gian 2 dĩ dài 7,82m; rộng 4,6m. Gian giữa rộng 2,4m; hai gian bên rộng 2,2m; hai dĩ rộng 0,51m; cột cái – cột cái 1,9m; gian giữa trốn cột cái; cột cái – cột quân 1,1m; cột quân – tường hậu 0,51m. Hệ vì kèo kết hợp kẻ ngồi, chồng rường giá chiêng. Mái lợp ngói mũi hài; Cửa gỗ bức bàn thượng sơn hạ bản. Nền lát gạch bát 300x300.

Đền thờ hiện nay gồm Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Hai ngôi Trung đường và Hậu cung còn tương đối tốt và chắc chắn, tuy nhiên có hạng mục Tiền đường được xây dựng những năm gần đây bằng kết cấu gỗ đơn giản đã xuống cấp nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thờ tự và các hoạt động văn hoá tâm linh tại đền UBND xã đã có tờ trình đề nghị nâng cấp cải tạo lại tiền đường.

Chúng ta rất đỗi tự hào về tiên tổ, tự hào là những cháu con được sinh ra và lớn lên ở vùng đất địa linh nhân kiệt. Hướng về cội nguồn, chúng ta hãy cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp hơn.

Lê Văn Thuận CC VHXH